Cá hồi đóng hộp Nhật Bản

20,000₫ 30,000₫
Trứng cá hồi được đẻ tại những dòng suối nước ngọt thông thường ở nơi có độ cao lớn. Trứng phát triển thành cá bột hay bọc trứng (sac fry). Cá mới nở nhanh chóng phát triển thành cá con với những dải ngụy trang dọc....

Trứng cá hồi được đẻ tại những dòng suối nước ngọt thông thường ở nơi có độ cao lớn. Trứng phát triển thành cá bột hay bọc trứng (sac fry). Cá mới nở nhanh chóng phát triển thành cá con với những dải ngụy trang dọc. Cá con ở lại dòng suối quê hương trong sáu tháng tới ba năm trước khi trở thành cá non, được phân biện bởi màu sáng bạc với các vảy có thể dễ dàng bóc. Ước tính chỉ 10% trứng cá hồi sống sót tới giai đoạn này.[49] Tính chất hóa học cơ thể của cá con thay đổi, cho phép chúng sống trong nước mặn. Cá hồi con dành một phần thời gian di cư để sống ở vùng nước lợ, tính chất hóa học cơ thể của chúng trở nên quen thuộc với điều kiện thẩm thấu tại đại dương.

Cá hồi xây dựng tổ (redd) tại khu nước chảy nhanh và nông của sông

Cá hồi xây dựng tổ (redd) tại khu nước chảy nhanh và nông của sông

Các bọc trứng (sac fry) vẫn còn trong môi trường sống với sỏi của các hố redd (tổ) cho đến khi noãn hoàng của chúng (còn gọi là "hộp cơm trưa") cạn kiệt

Các bọc trứng (sac fry) vẫn còn trong môi trường sống với sỏi của các hố redd (tổ) cho đến khi noãn hoàng của chúng (còn gọi là "hộp cơm trưa") cạn kiệt

Cá hồi con, parr, lớn lên tại dòng sông quê hương được bảo vệ khá tốt

Cá hồi con, parr, lớn lên tại dòng sông quê hương được bảo vệ khá tốt

Cá con mất các sọc ngụy trang và trở thành cá non khi chúng sẵn sàng di ra biển

Cá con mất các sọc ngụy trang và trở thành cá non khi chúng sẵn sàng di ra biển

Cá Sockey đực trưởng thành ở biển

Cá Sockey đực trưởng thành ở biển

Cá Sockeye đực trưởng thành ở nước ngọt

Cá Sockeye đực trưởng thành ở nước ngọt

Cá hồi dành khoảng một tới năm năm (tùy theo loài) ở biển khơi nơi chúng dần trưởng thành về giới tính. Cá hồi trưởng thành sau đó đa số quay lại dòng suối quê hương để đẻ trứng. Tại Alaska, sự trao đổi chéo với dòng suối khác cho phép cá hồi tới sinh sống tại những dòng suối mới, như những con cá xuất hiện khi một sông băng rút lui. Phương pháp chính xác cá hồi dùng để định hướng vẫn chưa được xác định, dù khứu giác tốt của chúng có liên quan. Cá hồi Đại Tây Dương dành từ một tới bốn năm ở biển. (Khi một con cá quay về sau chỉ một năm sống ở biển được gọi là grilse ở Canada, Anh và Ireland.) Trước khi đẻ trứng, tùy thuộc theo loài, cá hồi trải qua sự thay đổi. Chúng có thể phát triển một cái bướu, mọc răng nanh, phát triển một bướu gù (một sự uốn cong của hàm ở cá hồi đực). Tất cả sẽ chuyển từ màu xanh bạc của cá nước ngọt ra sống ở biển sang một màu tối hơn. Cá hồi có thể thực hiện những chuyến đi đáng kinh ngạc, thỉnh thoảng di chuyển hàng trăm dặm ngược dòng nước chảy nhanh và mạnh để đẻ trứng. Ví dụ, cá hồi Chinook và sockeye từ miền trung Idaho di chuyển 900 dặm (1.400 km) và lên cao xấp xỉ 7.000 foot (2.100 m) từ Thái Bình Dương khi chúng quay về để đẻ trứng. Sức khỏe của chúng kém đi khi chúng càng sống lâu trong nước ngọt, và càng kém nữa saiu khi chúng đẻ trứng, khi chúng được gọi là kelt. Ở mọi loài cá hồi Thái Bình Dương, các cá nhân trưởng thành chết trong vòng vài ngày hay vài tuần sau khi đẻ trứng, một đặc điểm được gọi là semelparity. Khoảng 2% tới 4% cá hồi Đại Tây Dương cái sống sót để đẻ trứng lần nữa. Tuy nhiên, ở những loài cá hồi có thể đẻ trứng hơn một lần này (iteroparity), tỷ lệ chết sau khi đẻ khá cao (có lẽ lên tới 40 tới 50%.)

Để đẻ bọc trứng, cá hồi cái dùng đuôi (vây đuôi), để tạo một vùng áp suất thấp, khiến sỏi trôi xuôi dòng, tạo một hố lõm nông, được gọi là một redd (tổ cá hồi). Hố redd có thể thỉnh thoảng chứa 5.000 trứng rộng 30 foot vuông (2,8 m2).[50] Trứng thường có màu cam tới đỏ. Một hay nhiều con đực bơi cạnh con cái, phun tinh trùng, hay tinh dịch (milt), lên trứng.[48] Sau đó con cái đẩy sỏi phía đầu dòng phủ trứng trước khi bơi đi tạo một tổ redd khác. Con cái sẽ làm thậm chí tới bảy redd trước khi hết trứng.[48]

Nội dung tùy chỉnh viết ở đây